Combo Sách Kahlil Gibran 4 (Bộ 4 Cuốn)
1. Sương Bụi Phù Hoa
Thi sĩ, triết gia và họa sĩ Kahlil Gibran chào đời tại xứ Li-băng (Lebanon) giáp ranh miền Bắc của Israel. Mảnh đất nhìn ra Địa Trung Hải, với Syria và Thổ Nhĩ Kỳ sát cạnh sườn, nên là nơi giao lưu của nhiều nền văn hóa lớn và sản sinh ra nhiều ngôn sứ nổi tiếng. Bản thân Kahlil Gibran cũng được đánh giá là một ngôn sứ của thời đại.
Kahlil Gibran đã được dịch khá nhiều ở Sài Gòn trước 1975. Một số tác phẩm được xuất bản gần đây như Giọt lệ và nụ cười, 2007, Nxb Văn hóa Sài Gòn (Nguyễn Yến Anh dịch, tái bản bản in trước 1975), Ngọn lửa vĩnh cửu, 2009, Nxb Văn hóa Sài Gòn (Đỗ Tư Nghĩa dịch) và Nhà tiên tri, 2010, Nxb Thời đại (Châu Diên dịch, tái bản bản in năm 1992), nhưng rải rác. Lần này, với bộ sách Kahlil Gibran, nhà nghiên cứu – dịch giả Nguyễn Ước đã dành thời gian hơn 2 năm để dịch và giới thiệu cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về con người – tác phẩm lừng danh: Kahlil Gibran.
“Bao giờ tới ngày Thiên nhiên trở thành vị thầy của con người với sách vở là loài người và trường học là cuộc đời? Nếu ngày ấy chưa tới, cùng đích hân hoan của tuổi trẻ không thể hoàn toàn đạt được. Trên đường đi tới sự thăng hoa tâm linh, chúng ta bước quá chậm vì chúng ta sử dụng quá ít nhiệt tình tuổi trẻ.” Kahlil Gibran đã nêu câu hỏi cùng với nhận định ray rứt ấy trong truyện đầu tiên của tập Sương Bụi Phù Hoa. Đây là tác phẩm đầu tay của Kahlil Gibran nói tới Đau khổ, Linh hồn, Thời gian và Tôn giáo, với nhiều chủ đề khác của cuộc đời, quyện vào nhau. Nhưng trên hết, vẫn là Tình yêu và Tuổi trẻ. Tình yêu nối kết và giải phóng con người, đóa hoa của tuổi trẻ và là cánh cửa mở tới Chân lý, Cái đẹp và Thượng đế.
2. Trầm Tưởng
Anthony R. Ferris hợp tuyển một số bài viết bằng tiếng A Rập, rải rác trong sách báo và thư tín của Gibran rồi dịch sang tiếng Anh, làm thành cuốn Thoughts and Meditations, được nhà xuất bản Citadel ở Hoa Kỳ in lần đầu năm 1960 và một số nhà xuất bản khác tái bản nhiều lần. Và chúng tôi chuyển ngữ cuốn sách đó sang tiếng Việt với tựa đề Trầm Tưởng.
Trong Trầm Tưởng ta nghe ra mình và thấy con người mình, mà như Kahlil Gibran nói, đó là tiếng của linh hồn mình. Bằng chiêm nghiệm và cảm nhận trong tĩnh mịch, trầm tư quán tưởng nâng tư duy suy lý lên tầm cao tâm linh, triết học lên đạo học. Gibran là con người của trầm tư quán tưởng, động thái cốt lõi của người nghệ sĩ mà theo ông, là kẻ “tri kiến cái vô tri kiến và biến nó thành tri kiến”. Ông chiêm nghiệm nhưng không theo một khuynh hướng bảo thủ sinh học hay một học thuyết chính thống tôn giáo nào, cũng không cách ly với thực tại trong những cảm xúc và phát biểu về dân tộc và lịch sử. Và ông ghi lại những kiến thị về con đường dẫn tới hòa bình và tình yêu, bằng một bút pháp đầy thi vị trong các tiểu phẩm văn chương hay triết lý theo cách “Một nửa những gì tôi nói là vô nghĩa nhưng tôi phải nói chúng ra nể nửa kia với tới bạn.”
3. Tiếng Vô Thanh & Người Tình Vĩnh Cửu
Thi sĩ, triết gia và họa sĩ Kahlil Gibran chào đời tại xứ Li-băng (Lebanon) giáp ranh miền Bắc của Israel. Mảnh đất nhìn ra Địa Trung Hải, với Syria và Thổ Nhĩ Kỳ sát cạnh sườn, nên là nơi giao lưu của nhiều nền văn hóa lớn và sản sinh ra nhiều ngôn sứ nổi tiếng. Bản thân Kahlil Gibran cũng được đánh giá là một ngôn sứ của thời đại.
Kahlil Gibran đã được dịch khá nhiều ở Sài Gòn trước 1975. Một số tác phẩm được xuất bản gần đây như Giọt lệ và nụ cười, 2007, Nxb Văn hóa Sài Gòn (Nguyễn Yến Anh dịch, tái bản bản in trước 1975), Ngọn lửa vĩnh cửu, 2009, Nxb Văn hóa Sài Gòn (Đỗ Tư Nghĩa dịch) và Nhà tiên tri, 2010, Nxb Thời đại (Châu Diên dịch, tái bản bản in năm 1992), nhưng rải rác. Lần này, với bộ sách Kahlil Gibran, nhà nghiên cứu – dịch giả Nguyễn Ước đã dành thời gian hơn 2 năm để dịch và giới thiệu cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về con người – tác phẩm lừng danh: Kahlil Gibran.
“Hãy tự biết mình”, như đức vua trong câu truyện Vua ẩn tu, là chủ đề chính của 24 dụ ngôn và thơ làm thành cuốn Tiếng vô thanh này, được dịch từ cuốn The Forerunner, His Parables and Poems ( Kẻ tiền hô, dụ ngôn và thơ của hắn, 1920), tác phẩm thứ hai Gibran viết bằng tiếng Anh.
Cách duy nhất để tự biết mình, theo Gibran trong Tiếng Vô Thanh, là tự mình lau sạch chiếc gương linh hồn để soi lấy nó, như một đức vua khác trong ngày đăng quang. Hình ảnh chiếc gương gợi cho ta thấy một quan điểm tu tập của hệ phái thần bí Sufi Hồi giáo: bạn không thể tự thấy mình qua phản ánh của người khác. Như thế, ta thấy rõ tại sao Gibran được xem là nơi hội tụ của các tôn giáo và triết học Đông Tây.
Tự soi lấy mình để thức ngộ, thoát khỏi vô minh, như một câu hát của Phạm Duy: “Và khi thức dậy, tôi tìm thấy tôi.” Tỉnh thức và tìm thấy chỉ là một. Cái tôi tiền kiếp về đứng ngó hay cái tôi hiện kiếp đang ngồi đây cũng là một: nó là Kẻ tiền hô vô thanh của cái tôi bây giờ và cái tôi mai sau. Và từ đó, ta làm hành giả như trong một câu hát khác lần này của Trịnh Công Sơn: “Trời cao đất rộng một mình tôi đi; đời như vô tận, một mình tôi về với tôi.”
4. Tình Yêu Tận Hiến
Thi sĩ, triết gia và họa sĩ Kahlil Gibran chào đời tại xứ Li-băng (Lebanon) giáp ranh miền Bắc của Israel. Mảnh đất nhìn ra Địa Trung Hải, với Syria và Thổ Nhĩ Kỳ sát cạnh sườn, nên là nơi giao lưu của nhiều nền văn hóa lớn và sản sinh ra nhiều ngôn sứ nổi tiếng. Bản thân Kahlil Gibran cũng được đánh giá là một ngôn sứ của thời đại.
Kahlil Gibran đã được dịch khá nhiều ở Sài Gòn trước 1975. Một số tác phẩm được xuất bản gần đây như Giọt lệ và nụ cười, 2007, Nxb Văn hóa Sài Gòn (Nguyễn Yến Anh dịch, tái bản bản in trước 1975), Ngọn lửa vĩnh cửu, 2009, Nxb Văn hóa Sài Gòn (Đỗ Tư Nghĩa dịch) và Nhà tiên tri, 2010, Nxb Thời đại (Châu Diên dịch, tái bản bản in năm 1992), nhưng rải rác. Lần này, với bộ sách Kahlil Gibran, nhà nghiên cứu – dịch giả Nguyễn Ước đã dành thời gian hơn 2 năm để dịch và giới thiệu cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về con người – tác phẩm lừng danh: Kahlil Gibran.
Tình Yêu Tận Hiến được viết ra cách đây hơn một thế kỷ trong tình cảnh đô hộ của đế quốc Ottoman, khuyết tật của tôn giáo cơ chế, và địa vị tôi tớ của phụ nữ phương Đông. Tới nay, ở nhiều nơi, hoàn cảnh lịch sử có đổi khác nhưng dường như chỉ là sự biến thái mang tính thời đại và dân túy để tiếp tục đày ải tinh vi, nên Tình yêu tận hiến vẫn được nhiều người tìm đọc, đặc biệt giới trẻ, vì những vấn đề muôn thuở trong nội dung của nó. Có nhiều nữ độc giả lấy tên Rose của nhân vật chính đặt tên cho con gái mình như một biểu tượng cho mơ ước.
Trong đồng cảm, lối tường thuật của Gibran chan chứa xúc động và đậm đà chất thơ, tư duy của ông đầy lý tưởng khi phê phán sự đạo đức giả của xã hội áp bức và tôn giáo định chế, đồng thời chúc phúc cho sự giản dị mộc mạc của những linh hồn thanh khiết và những tâm hồn chân thật.
Cho linh hồn đã ấp ủ linh hồn tôi
Cho tâm hồn đã rót những bí mật vào tâm hồn tôi
Cho bàn tay đã nhóm lên ngọn lửa tình yêu của tôi
Nhà sách Newshop trân trọng gửi đến độc giả!