Triết Lý Đã Đi Đến Đâu

Triết Lý Đã Đi Đến Đâu

Triết Lý Đã Đi Đến Đâu - Triết lý là ý niệm của nhân loại, tự giác đã đi ra khỏi cách sinh sống thời đại dã man, và nhờ văn minh có nâng đời sống lên phương diện phổ biến: nghĩa là mỗi người có một nhân phẩm ai ai cũng phải công nhận không kể đến hoàn cảnh đặc biệt.
140.000đ 135.800đ

Tiết kiệm: 4.200đ (3%)

Mã Giảm Giá:
Giảm 10k
Giảm 5k
THÔNG TIN & KHUYẾN MÃI

Thanh toán linh hoạt với:  , ATM nội địa, Internet Banking 

Giao hàng trên Toàn Quốc

Đặt online hoặc gọi ngay 0909.354.135

Chiết khấu cao cho các đại lý và khách đặt sỉ

Sale Bạt Ngàn, Đón Hè Sang Với Nhiều Ưu Đãi Hấp Dẫn Cùng Newshop

Giao hàng bởi Công Ty TNHH Trực Tuyến NEWSHOP

Giao hàng trên toàn Quốc

Nhận hàng rồi mới thanh toán tiền ( COD )

Triết Lý Đã Đi Đến Đâu
Triết Lý Đã Đi Đến Đâu
135.800đ 140.000đ Tiết kiệm: 4.200đ (3%)
Mua kèm giảm thêm
Mô tả sản phẩm
Triết Lý Đã Đi Đến Đâu

Triết Lý Đã Đi Đến Đâu 1

Triết lý là ý niệm của nhân loại, tự giác đã đi ra khỏi cách sinh sống thời đại dã man, và nhờ văn minh có nâng đời sống lên phương diện phổ biến: nghĩa là mỗi người có một nhân phẩm ai ai cũng phải công nhận không kể đến hoàn cảnh đặc biệt, nhưng chỉ vì một người là một người, có giá trị làm người.
 
Trong thời đại dã man, đời sống chỉ tổ chức theo từng họ và từng làng, vậy giá trị của một người không ra khỏi giới hạn hẹp hòi của huyết thống và lân ấp. Nhưng dần dần lực lượng sản xuất bành trướng, tăng gia nông vật và công phẩm, triển khai giao dịch: đời sống càng ngày càng ra ngoài cái khuôn khổ chặt chẽ của họ và làng, vậy dần dần đã thực hiện một ý nghĩa phổ biến.
 
Nhân phẩm mới đầu tiên xuất hiện trong một vài người có đủ năng lực độc chiếm và phòng thủ những tài sản mới, gây nên một đời sống chủ quan, có giá trị đối với hết thiên hạ. Đó là chế độ phong kiến, bảo đảm cho một nhóm đại điền chủ một địa vị tuyệt đối, bằng cách áp phục nông phu. Hạng này đã mất đi những quyền tự do mà trước kia được hưởng trong xã hội dã man, và đã biến đổi thành nô lệ. Giữa các chủ nhân thì chưa có dây liên quan thiết thực, trừ một vài tục lệ nghĩa hiệp duy tâm, tiêu biểu cho thế lực quân hoành: nhưng mỗi bên bao giờ cũng sẵn sàng tranh đấu sống chết. Vậy mỗi chủ nhân đã thực hiện ý nghĩa phổ biến trong đời sống cá nhân. Nhưng đại đa số lại biến thành nô lệ, nghĩa là mất hết tính cách nhân loại.
 
Đồng thời lực lượng mới phát triển. Nhờ công nghiệp và thương mại, nẩy ra một số người làm nguồn cho giai cấp trưởng giả sau đây, tạo tác những điều kiện thực tế để ra khỏi giới hạn chật hẹp của đời sống trong thái ấp, và bước lên một trình độ cao hơn, thực hiện để cho toàn thể dân chúng giá trị và nhân phẩm phổ biến trong phạm vi quốc gia.
 
Các thái ấp không thể nào duy trì tự chủ giữa sự giao dịch càng ngày càng nhiều và càng rộng. Giai cấp trưởng giả phát sinh trong xã hội phong kiến, lúc bành trướng lại phá bỏ cái xã hội ấy, và thiết lập một đời sống mới dựa vào chính thể quốc gia. Những lực lượng sản xuất mới làm những cổ tục bản địa phải lùi trước luật pháp, do quyền thế tuyệt đối của chính phủ quốc gia bảo đảm. Vậy mỗi cá nhân đã trở lên phương diện phổ biến, nghĩa là thực hiện một nhân phẩm toàn thể xã hội công nhận, vì mỗi hành vi, xuất hiện trong phạm vi luật pháp, tự nhiên có giá trị đối với toàn thể xã hội, và thực thể của xã hội cũng chỉ là những hành vi của cá nhân trong phạm vi luật pháp.
 
Trong lịch sử nhân loại, Ai Cập và Lưỡng Hà Địa đã quá thời đại phong kiến, và đã bước tới chính thể quốc gia từ Thiên niên kỷ thứ ba trước Gia tô. Nhưng đó là sự biến chuyển đặc biệt của hai xứ ấy. Đứng về phương diện hoàn cầu, chính thể quốc gia xuất hiện vào giữa Thiên niên kỷ thứ nhất trước Gia tô. Trung Hoa trải qua thời đại Chiến Quốc, ra khỏi chế độ phong kiến và đạt tới chính thể duy nhất độc đoán của nhà Tần và nhà Hán. Đồng thời Ấn Độ, nhờ kỹ nghệ thương mại phát đạt, dần dần tổ chức từng nước quân chủ, phá bỏ những thái ấp phong kiến thiết lập từ ngày dân tộc Aryen chiếm đóng, rồi đến thế kỷ thứ ba trước Gia tô hiệp nhất dưới Đế quốc Maurya. Về phía Tây, thế kỷ thứ sáu và thứ năm là một thời đại văn minh rực rỡ. Đế quốc Ba Tư gồm được những xứ Iran, Lưỡng Hà Địa, Tiểu Á Tế Á, Ai Cập, và phần Tây Ấn Độ. Rốt cục Hy Lạp được một số thành thị phát đạt một cách lạ lùng.

 
Triết Lý Đã Đi Đến Đâu 2

Trong những nước kể trên, giai cấp trưởng giả mới đã bảo đảm quyền lợi công nghiệp và thương mại bằng cách ủng hộ một nhà nước phong kiến chiến thắng những nhà phong kiến khác và đặt một chế độ quân chủ độc đoán. Nghĩa là hạng trưởng giả ngày ấy, vì chưa đủ lực lượng để chi phối xã hội, phải dùng đến chính quyền tuyệt đối của nhà vua để cấm chế bọn đại điền chủ và thiết lập một pháp chế phổ biến ai ai cũng phải công nhận để dễ đường lối buôn bán. Vậy những quyền lợi kinh tế trưởng giả đã thực hiện bằng cách hy sinh tự do chính trị và tư tưởng. Đặc biệt là xứ Hy Lạp chia ra từng thành thị độc lập, địa phận rất nhỏ, nhưng cực kỳ phú cường, đã được một giai cấp trưởng giả có đủ lực lượng để thống trị xã hội, vậy ra khỏi chế độ quân chủ và hưởng tự do chính trị và tư tưởng trong chế độ cộng hòa dân chủ.
 
Sự thiết lập chính thể mới là do ở một cuộc cách mệnh đầy ý nghĩa, biểu hiện trong một số chủ nghĩa trọng yếu, những chủ nghĩa này làm nguồn cho đời sống tinh thần của nhân loại văn minh. Trung gian Thiên niên kỷ thứ nhất trước Gia tô là thời đại tự giác của nhân loại, sự tự giác đó biểu lộ những lực lượng sản xuất mới nảy nở trong xã hội phong kiến, đưa đời sống nhân loại ra khỏi giới hạn tự nhiên và trực tiếp của huyết thống và thái ấp, và nâng lên trình độ duy tâm phổ biến. Trung Hoa có Lão tử và Khổng tử (thế kỷ thứ sáu và thứ năm), Ấn Độ có Phật Thích Ca (thế kỷ thứ năm), Ba Tư có Zoroastre (thế kỷ thứ sáu). Hy Lạp có Socrate và Platon (thế kỷ thứ năm và thứ tư) và rất nhiều nhà triết học đại tài. Bấy nhiêu bậc hiền nhân cùng nhận cái ý nghĩa mới trong đời sống thiết thực, nhưng hiểu theo mỗi hoàn cảnh thiết thực.
 
Lão tử dùng nhữn quan niệm phù thủy, do thời đại khuyết sử truyền lại, để sáng tạo một thần thuật nâng hiền nhân lên một phương diện tự chủ hoàn toàn. Nhờ cách đồng hóa với sinh lực của Tự nhiên, cá nhân sẽ hưởng được một sức mạnh tuyệt đối và bất tử. Đạo giáo tiêu biểu cho hạng nông phu, hiểu đoán trong phạm vi nông nghiệp, theo cái kinh nghiệm của một đời sống trực tiếp với sinh khí tự nhiên của cây cỏ và động vật, những ý kiến phổ biến của xã hội mới.
 
Khổng giáo thì tiêu biểu cho hạng tiểu phong kiến, tìm cách nâng cao những quan niệm quân tử nghĩa hiệp, những lễ nghi cựu truyền, xuất hiện từ đời thượng cổ trong phạm vi thái ấp, bây giờ phải phục hưng trong phạm vi phổ biến, để thống trị những lực lượng công nghệ và thương mại đương phát triển. Vậy vẫn phải dùng phương tiện cũ để giải quyết vấn đề mới, và nói rằng những lễ nghi cựu truyền và những quan niệm quân tử không có giá trị trước pháp luật phổ biến, do quyền tuyệt đối của chính thể quốc gia thiết lập và bảo đảm. Phái này tiêu biểu cho giai cấp trưởng giả ủng hộ quân chủ để chống phong kiến, vậy bị những người tiêu biểu cho phong kiến phản đối. Một hôm, nhà vua ra lệnh đúc một số nồi lớn bằng sắt rồi khắc những hình luật vào đấy, có ý tỏ rằng người nào phạm tội thì sẽ bị đun sôi. Mấy cái nồi ấy biểu thị ý chí của toàn xã hội, vì cái sắt dùng để đúc là do toàn thể dân chúng mỗi người góp vào một phần. Nghĩa là quyền lợi cá nhân đã hết giá trị trước ý chí phổ biến của xã hội, không kể đến địa vị đặc biệt của từng người. Nhưng Khổng tử tỏ ý bất bình, nói rằng như vậy thì dân chỉ biết mấy cái nồi đó và hết phục tòng mấy người quý tộc. Phái Pháp học được ảnh hưởng trong lúc thiết lập chính thể quốc gia. Nhưng sau khi quân chủ đã thắng, giai cấp trưởng giả Trung Hoa lại hết tư tưởng cách mệnh, vì không có đủ lực lượng để đi xa hơn và gánh lấy trách nhiệm chi phối xã hội. Vậy chế độ quân chủ lại quay về bọn phong kiến và phục hưng những quan niệm quân tử cựu truyền.
 
Vì công nghiệp và thương mại Á Đông không chủ quan hoàn toàn những lực lượng nông nghiệp, do bọn phong kiến thống ngự, ý nghĩa phổ biến của đời sống trưởng giả chỉ tự giác một cách tiêu cực trong Phật giáo. Các hành động của giai cấp trưởng giả đã làm cho đời người ra khỏi cái vòng trực tiếp của đời sinh sống tự nhiên còn duy trì trong nông nghiệp. Vì ý nghĩa một sản vật chỉ là thực hiện một số tiền, vì trong lúc buôn bán chỉ để ý đến số tiền ấy, vậy các thực thể đã mất đặc tính tự nhiên và chỉ xuất hiện dưới hình thức phổ biến, là giá tiền mà toàn thể công chúng công nhận: từ đấy, mỗi đời sống cá nhân xếp đặt theo một cách có giá trị đối với toàn thể xã hội, nghĩa là thực hiện một ý nghĩa duy tâm, đưa đời người ra khỏi những điều kiện đặc biệt của mỗi hoàn cảnh vật chất. Nhưng vì thiếu phương tiện để biểu lộ và bảo đảm cái ý nghĩa đó một cách thiết thực, cá nhân lúc bãi bỏ những giới hạn tự nhiên và trực tiếp của vật thể và trở nên phương diện phổ biến, thì lại chỉ thấy cái sự bãi bỏ ấy, nghĩa là hư không trên cõi Niết bàn.
 
Văn minh Á Đông không có bày tỏ ý nghĩa phổ biến một cách tích cực, vì đời sống không chủ quan những điều kiện tự nhiên một cách thiết thực. Trái lại, văn minh Âu Tây có tính cách phân ly đối với những điều kiện tự nhiên.
 
Nguồn gốc là Hy Lạp thượng cổ đã được một giai cấp trưởng giả có đủ năng lực để thực hiện đời sống mới một cách hoàn hảo và tự chủ. Dân tộc Hy Lạp đã được cái hạnh phúc ra khỏi chế độ dã man một cách dễ dàng, và đã được hưởng những thành tích của công trình khó nhọc của Ai Cập và Lưỡng Hà Địa đã gây nên hình thức nguyên thủy của đời sống văn minh. Vậy Hy Lạp đã được hưởng văn minh một cách tự nhiên, và nhờ sự bành trướng vĩ đại của lực lượng công nghệ và thương mại trong những địa phận rất nhỏ của các thành thị độc lập, ý nghĩa phổ biến của xã hội mới đã thực hiện một cách tích cực trong đời sống hàng ngày của mỗi công dân. Từ đấy nẩy ra chế độ dân chủ trực tiếp, cho mỗi công dân từ trẻ đến già chỉ chuyên tâm làm việc chính trị, đi dự đại hội đồng và các ban chuyên trị, lúc chiến tranh thì nhập vào bộ đội, vì bộ đội là sự biểu tình của xã hội. Vậy đời sống chỉ xuất hiện trong phạm vi ý niệm phổ biến, mỗi cử chỉ thực hiện một ý nghĩa có giá trị đối với toàn thể dân chúng, vậy thực thể đã mất cái hình thức tự nhiên trong cảm giác cá nhân, và chỉ tồn tại trong ý niệm phổ biến của toàn thể xã hội.

 
Vì vậy Socrate và Platon tiêu biểu cho văn minh thành thị Hy Lạp, ráng sức ra khỏi phạm vi cảm giác tự nhiên và tìm cái chân lý của thực thể hữu hình trong một giới siêu nhiên, là giới Ý niệm. Vật giới chỉ là một dòng biến chuyển vô lý và bất định, vậy sự tồn tại chân thực chỉ có ở trong Ý niệm. Ví dụ như con ngựa chân thực không phải là con ngựa hữu hình ta trông thấy trước mắt, nhưng là con Ngựa bản tính. Ý niệm Ngựa trên Lý giới. Vì lúc ta định nghĩa và nói chuyện về con ngựa thì ta chỉ thị tất cả các con ngựa chứ không phải riêng con ngựa đặc biệt mà ta trông thấy trước mắt. Vậy con ngựa mà ta nghĩ đến là con Ngựa phổ biến, Ý niệm ngựa, và nếu những con ngựa hữu hình ta trông thấy có tính cách ngựa, đó chỉ là nhờ Ý niệm ngựa : vì nếu không có Ý niệm ngựa thì không ai có thể biết rằng con vật này chính là con ngựa. Một người đẹp không phải là vì cái hình dáng đặc biệt trong cảm giác, nhưng chỉ vì Ý niệm đẹp, cá Đẹp phổ biến trên Lý giới siêu nhiên. Vì nếu ta chưa hiểu biết một cách phổ biến, theo ý niệm, cái đẹp là gì, thì ta cũng không biết được rằng người này đẹp, vì trông thấy cái vật thể đó ta không có cách gì mà nhìn nhận rằng đó là một người đẹp.

 
Triết Lý Đã Đi Đến Đâu 3
 
Rõ ràng đó là một triết thuyết tiêu biểu cho đời sống văn minh tỉnh thành; những vật thể chỉ có ý nghĩa trong sự mua bán, chế nhạo và bình phẩm, nghĩa là trong những cử chỉ của một dân tộc đã mất dây liên quan với Tự nhiên, và chỉ sống một đời sống nhân vi theo ý niệm phổ biến. Nhờ những ý niệm này, mỗi sự biến xuất hiện dưới một hình thức có giá trị đối với toàn thể xã hội. Nghĩa là thực thể bây giờ đã có tính cách duy tâm, định nghĩa bằng ý niệm, ngoài hết cảm giác tự nhiên. Nghĩa là đời sống đã biến đổi thành trừu tượng, phân ly một cách hoàn toàn nhân loại và tự nhiên, chính sự phân ly đó đã biểu lộ trong triết thuyết duy tâm của Platon.
 
Chủ nghĩa ý niệm đã trải một màu vĩnh viễn lên tư tưởng trưởng giả Âu Tây. Vì tuy cái nguyện vọng của nhà triết học đi sau Platon là trở lại trần gia và đạt tới vật thể, nhưng những vật thể đó bao giờ cũng hiểu trong phạm vi ý niệm. Tư tưởng Âu Tây đã quên hẳn cái dây liên quan giữa nhân loại và Tạo hóa, tinh thần và vật chất trong đời sống thiết thực. Lúc nói đến thực thể thì lại hiểu là ý niệm thực thể, nói đến cảm giác thì hiểu là ý niệm cảm giác, vì vậy không bao giờ giải thích được tại sao vật sinh tâm, cảm giác biến đổi thành ý niệm trong đời sống nhân loại: vì tất nhiên ý niệm vật thể hoàn toàn mâu thuẫn với ý niệm ý niệm. Nghĩa là bao giờ cũng đứng vào phương diện phân ly trừu tượng, lấy ý niệm mà thế vào thực thể, và lý luận trong phạm vi ý niệm, không bao giờ trực tiếp với thực thể, vậy không thể nào giải quyết những sự mâu thuẫn giữa các ý niệm. Chính sự trực tiếp cũng lại hiểu theo ý niệm trực tiếp, ý niệm này hoàn toàn mâu thuẫn với ý niệm lý luận gián tiếp, thành ra vẫn không có cách giải thích vì sao từ trình độ trực tiếp tự nhiên, nhân loại sáng tạo ra những phương pháp duy lý.
 
Những mâu thuẫn ấy do ở đời sống thiết thực của giai cấp trưởng giả Âu Tây, bành trướng rực rỡ trong đời thượng cổ, đến đời trung cổ thì dựa vào quyền thế của giáo hội để duy trì những thành tích của văn minh thượng cổ, rồi sau phục hưng và phát triển trên khắp hoàn cầu, cho đến thế kỷ thứ mười chín là lúc bắt đầu đi vào thời đại trụy lạc. Trong cuộc bành trướng, trưởng giả Âu Tây gây nên một đời sống trừu tượng, bằng cách chế tạo những điều kiện sinh sống theo ý niệm nhân vi, kiến thiết một xã hội tương phản với tự nhiên. Sự tương phản này biểu lộ trong cách tư tưởng duy tâm trừu tượng và trong khoa học chính xác, dùng những ý niệm hoàn toàn phổ biến và khách quan, độc lập đối với cảm giác, hình tượng và hoàn cảnh đặc biệt của mỗi cá nhân. Chính khoa học và cách tư tưởng đó, chủ nghĩa Ý niệm của Platon đã khai thủy một cách vĩ đại.
 
Đó là chỗ xung khắc với Á Đông, vì tư tưởng Á Đông không bao giờ phân ly tinh thần và vật thể, ý niệm và cảm giác, lý thuyết và thực tế, nhân loại và Tạo hóa. Trưởng giả Á Đông từ đời thượng cổ chưa lúc nào có đủ năng lực để tiêu diệt bọn phong kiến và chỉ huy xã hội để kiến thiết một đời sống hoàn toàn phổ biến. Vậy ý nghĩa nhân loại vẫn căn cứ trực tiếp vào những điều kiện tự nhiên và cụ thể, biểu lộ trong cảm giác và hình tượng chủ quan. Vì sự phân ly không có trong đời sống thiết thực, tư tưởng cựu truyền của Á Đông không có tính cách khoa học khách quan chính xác, nhưng cũng từ đó mà tránh được những sự mâu thuẫn giữa ý niệm trừu tượng.
 
Trưởng giả Âu Tây, vì đã rời tự nhiên, thành công trong việc sản xuất những điều kiện sinh sống bằng cách khoa học duy lý và tạo tác một thế giới nhân vi có ý nghĩa phổ biến. Nhưng cái ý nghĩa ấy lại thiết lập ngoài cái đời sống tự nhiên và trực tiếp, vậy cá nhân tuy bắt buộc phải công nhận nhưng không thể nào tự nhận và hưởng thụ một cách thiết thực. Ý thức trưởng giả không ra khỏi cái vòng duy tâm trừu tượng vì địa vị và nhiệm vụ trong xã hội chỉ là tiền đồ kế hoạch và chỉ huy công việc chứ không bao giờ làm việc vật chất, mà lại quên rằng những kế hoạch đó nếu được thực hiện cũng là nhờ công lao của giai cấp bị áp phục và bóc lột, nô lệ đời xưa hay vô sản đời nay. Chính công lao vật chất đó là dây liên quan thiết thực giữa thực thể tự nhiên và ý nghĩa phổ biến. Nhưng vì muốn giữ quyền lợi đặc biệt và biện chính địa vị thống trị trong xã hội, giai cấp trưởng giả không bao giờ nhìn nhận cái dây liên quan đó. Nghĩa là chỉ thấy sự phá bỏ vật thể tự nhiên chứ không hiểu rằng cái dây của sự phá bỏ ấy cũng là ở vật thể mà ra, vì công lao sản xuất chỉ là một cách biến chuyển của vật thể. Vậy những ý nghĩa văn minh tất nhiên xuất hiện trước ý thức trưởng giả dưới hình thức trừu tượng, tương phản với tự nhiên.
 
Tinh thần duy tâm là do ở điều kiện sinh sống của giai cấp trưởng giả; vì muốn dễ bóc lột và áp phục giai cấp lao động thì phải chối cãi và phủ định cái công phu thiết thực của họ, và đặt ý nghĩa của đời sống trên một giới siêu nhiên, là giới Ý niệm. Từ đấy nẩy ra vấn đề cốt yếu của triết lý Âu Tây: tại sao thực thể lại có ý nghĩa, mà  vì sao cá nhân, là một thực thể giữa vô số thực thể khác, lại có giá trị phổ biến, nghĩa là giá trị đối với hết cả thiên hạ?
 
Đời sống đã đặt ngoài tự nhiên, giai cấp trưởng giả không thể nào tự nhận và hưởng thụ một cách thiết thực và cụ thể cái chân lý của những sản vật chế tạo theo ý niệm phổ biến, nhưng sự thực vẫn là căn cứ vào tự nhiên. Vì vậy mà các nhà triết học cố tìm một con đường duy tâm để thực hiện trong tinh thần sự hưởng thụ đó. Phương tiện phổ biến thường dùng để mở con đường ấy là ý niệm Thượng đế.
 

Nhà sách Newshop xin hân hạnh giới thiệu đến bạn đọc!

quy-trinh-dong-hang-newhsop
Hỏi, đáp về sản phẩm
0 bình luận
Khách hàng nhận xét