Lễ Vu Lan - Báo Hiếu có nguồn gốc từ sự tích Phật Giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn, mang ý nghĩa nhân văn trên bình diện tâm linh và văn hóa của con người. Để hiểu hơn về ngày lễ trang nghiêm hàng năm này, Newshop xin giới thiệu đến các bạn những cuốn sách bán chạy nhất trong mùa Lễ Vu Lan nhé

Ý NGHĨA CỦA NGÀY LỄ VU LAN - BÁO HIẾU

Lễ Vu Lan được tổ chức long trọng vào ngày 15/7 âm lịch hằng năm. Kể từ những năm tháng đầu tiên khi Phật Giáo truyền vào Việt Nam, các chùa đã tổ chức Lễ Vu Lan. Ngày nay, đây không còn là ngày lễ của riêng tôn giáo nào mà trở thành "lễ hội" mang tính nhân văn, thiêng liêng về tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với bậc sinh thành. 

Vu Lan là gì?

Vu lan (chữ Hán: 盂蘭, bính âm: Zhōngyuán Jié; sa. ullambana), còn được hiểu là lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo (Đại thừa Bắc tông) và phong tục Trung Hoa. (Wikipedia)

Ý Nghĩa Hoa Cài Áo Lễ Vu Lan

Ý nghĩa hoa hồng cài áo trong ngày lễ vu lan
 
Nghi thức cài hoa lên ngực áo, theo Giáo sư,Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh - viện trưởng Viện Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam cho biết là bắt nguồn từ áng văn viết về Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh được viết trong những năm 1960. Phong tục này bắt nguồn từ một chuyến đi Nhật Bản, Thiền sư thấy người Nhật thành kính cài một hoa hồng trắng lên ngực áo lại thấy vô cùng kỳ lạ, sau khi hiểu được ý nghĩa sâu sắc của việc cài hoa này, ông đã quyết định chọn hoa hồng làm biểu tượng để thể hiện sự thành kính và biết ơn đối với bậc sinh thành trong ngày lễ Vu Lan. Hoa hồng tượng trưng cho tình yêu, thành tâm và cao quý. Nó chính là tình cảm sâu sắc nhất mà người con muốn gửi đến cha mẹ của mình nhầm ghi nhớ công lao sinh thành và dưỡng dục. Những ai được cài hoa màu hồng lên ngực áo, tượng trưng cho việc còn cha-mẹ, ai đã mất mẹ thì cài hoa màu trắng. 

NHỮNG CUỐN SÁCH Ý NGHĨA TRONG MÙA LỄ VU LAN

>>> KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU
 
Kinh Vu Lan Báo Hiếu
Kinh Vu Lan Và Báo Hiếu

 
Kinh Vu Lan Và Báo Hiếu dạy về đạo hiếu thảo của Phật giáo theo truyền thống Bắc tông. Hai tụng bản trong nghi thức này là bản dịch song thất lục bát của HT. Thích Huệ Đăng, mà phần lớn Tăng Ni và Phật tử đều thuộc lòng.
Nghi thức được biên soan gồm ba phần: Phần dẫn nhập, phần Chánh kinh và phần hồi hướng. Đây là nghi thức thuần Việt có nhiều bài sám nguyện, thường đọc tụng suốt mùa Vu lan tháng bảy như là tháng báo hiếu của người con Phật. Nhưng thật ra kinh này có thể được đọc tụng hàng ngày để hồi hướng công đức cho cha mẹ hiện tiền, đồng thời thắp sáng truyền thống hiếu đạo cho con cháu.

>>> TÌNH KHÚC VU LAN

 
Tình Khúc Vu Lan
Tình Khúc Vu Lan

 
Quyển sách Phật giáo Tình Khúc Vu Lan nói về tình cảm to lớn của người làm mẹ

Nếu có kỳ quan nào đẹp nhất, hùng vĩ nhất, mầu nhiệm nhất ở trên đời này, thì kỳ quan đó chính là trái tim của mẹ.

Trái tim của mẹ là kỳ quan tuyệt tác nhất trong đời.

Tình mẹ là thiên thu bất diệt, trong sáng vô ngần.

Tình yêu của mẹ chỉ cho mà không đòi điều kiện, chỉ biết ban phát mà không cần đáp trả.
Truyện Tích Vu Lan Phật Giáo
Truyện Tích Vu Lan Phật Giáo

 
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển. Vâng theo lời Phật dạy, ngay từ thời Phật còn tại thế đã có tôn giả Mục-kiền-liên được tôn xưng là bậc Đại hiếu. Từ đó đến nay, trải qua hơn 2.500 năm, cũng đã có không ít những gương hiếu hạnh trong hàng Phật tử. Và mỗi năm cứ đến mùa Vu Lan tháng bảy thì những người con Phật lại nhắc nhở cho nhau truyền thống này.

Tập truyện này là một món quà quý giá mang ý nghĩa giáo dục đạo đức rất cao mà các bậc cha mẹ có thể dành tặng cho con em mình. Những nội dung này sẽ giúp các em thấu hiểu sâu xa hơn về công ơn dưỡng dục của cha mẹ cũng như việc phải sống như thế nào để xứng đáng là một người con hiếu thảo.

>>> ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG

 
Đường Xưa Mây Trắng
Đường Xưa Mây Trắng

 
Tác phẩm kể chuyện về cuôc đời Đức Phật Thích Ca qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia trở thành 1 vị đệ tử của Phật. Đây là một thiên hùng ca  bày tỏ lòng ngưởng mộ đối trước lối sống gương mẩu đầy những hành vi và mục đích cao cả, to lớn . thu hút bạn đọc bởi nhân cách vĩ đại của Đức Phật Thích Ca qua con mắt nhìn của thầy Thích Nhất Hạnh. 
Cuốn sách này là cuốn sách bán chạy ở Bắc Mĩ và được dịch  ra hơn 20 thứ tiếng trên thế giới trong đó có Hindu. Vì vậy Tỉ Phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi sau khi đọc qua cuốn Đường Xưa Mây Trắng đã trả lời với phóng viên báo Hollywood Reporter :'tôi tìm được Đường Xưa Mây Trắng  từ 2 năm nay , cuốn sách đã thay đổi cuộc đời tôi nên tôi phải chia sẻ hạnh phúc ấy cho cả thế giới'. và ông tài trợ 120 triệu USD để các nhà sản xuất dựng cuốn sách này thành phim. 

>>> KHUYÊN NGƯỜI BỎ SỰ GIẾT HẠI

 
Khuyên Người Bỏ Sự Giết Hại
Khuyên Người Bỏ Sự Giết Hại

 
An Sĩ Toàn Thư là một bộ sách khuyến thiện từng được Đại sư Ấn Quang hết lời ngợi khen. Từ trước đến nay, tuy sách này được rất nhiều người biết đến nhưng chưa từng có bản Việt dịch hoàn chỉnh nào.
Sách dày hơn ngàn trang khổ lớn trong nguyên bản Hán văn. Phần đầu tiên là Giảng rộng bài văn Âm chất (Âm chất văn quảng nghĩa) chiếm khoảng hơn 400 trang, hiện đã được chuyển dịch hoàn chỉnh sang tiếng Việt và chú giải công phu bởi dịch giả Nguyễn Minh Tiến. Các phần tiếp theo sẽ được tiếp tục chuyển dịch và phát hành trong thời gian sắp tới.
Về nội dung sách, soạn giả sách này đã dựa vào bài văn Âm chất rất ngắn gọn (chỉ khoảng hơn 800 chữ) để biên soạn thành một bộ sách hơn 400 trang chữ Hán khổ lớn. Cách trình bày khá nhất quán trong toàn bộ sách. Cứ mỗi một câu được mang ra phân tích, bao giờ cũng An Sĩ toàn thư có một phần giảng rộng mà ông gọi là “phát minh”, sau đó đến phần đưa ra nhận xét, lời bàn, mà ông gọi là “án”. Tiếp đó, hầu hết đều có thêm phần trưng dẫn sự tích, gồm những câu chuyện được rút ra từ kinh điển hoặc các truyện tích trong Phật giáo, nhằm mục đích minh họa cho ý nghĩa của các phần trên.
Chính phần giảng rộng và lời bàn của tiên sinh An Sĩ đã khai phá và mở rộng ý nghĩa của bài văn Âm chất hoàn toàn theo tinh thần Phật giáo, giúp người đọc qua đó tiếp nhận được những giáo lý tinh hoa, những tri thức hướng thiện trên tinh thần từ bi, vị tha và trí tuệ. Không khó để chúng ta nhận ra rằng, tuy dựa trên bài văn Âm chất, nhưng hầu như phần trước tác của tiên sinh An Sĩ đã chi phối hoàn toàn nội dung của sách này.
Trọn bộ An Sĩ toàn thư gồm:
- Khuyên người bỏ sự giết hại
- Khuyên người bỏ sự tham dục
- Khuyên người tin sâu nhân quả (Quyển thượng)
- Khuyên người niệm Phật cầu sinh tịnh độ
- Khuyên người tin sâu nhân quả (Quyển hạ)

>>> KHÔNG DIỆT KHÔNG SINH ĐỪNG SỢ HÃI

 
Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi
Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi

 
Nhiều người trong chúng ta tin rằng cuộc đời của ta bắt đầu từ lúc chào đời và kết thúc khi ta chết. Chúng ta tin rằng chúng ta tới từ cái Không, nên khi chết chúng ta cũng không còn lại gì hết. Và chúng ta lo lắng vì sẽ trở thành hư vô.

Bụt có cái hiểu rất khác về cuộc đời. Ngài hiểu rằng sống và chết chỉ là những ý niệm không có thực. Coi đó là sự thực, chính là nguyên do gây cho chúng ta khổ não. Bụt dạy không có sinh, không có diệt, không tới cũng không đi, không giống nhau cũng không khác nhau, không có cái ngã thường hằng cũng không có hư vô. Chúng ta thì coi là Có hết mọi thứ. Khi chúng ta hiểu rằng mình không bị hủy diệt thì chúng ta không còn lo sợ. Đó là sự giải thoát. Chúng ta có thể an hưởng và thưởng thức đời sống một cách mới mẻ.

Không diệt Không sinh Đừng sợ hãi là tựa sách được Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết nên dựa trên kinh nghiệm của chính mình. Ở đó, Thầy Nhất Hạnh đã đưa ra một thay thế đáng ngạc nhiên cho hai triết lý trái ngược nhau về vĩnh cửu và hư không: “Tự muôn đời tôi vẫn tự do. Tử sinh chỉ là cửa ngõ ra vào, tử sinh là trò chơi cút bắt. Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt” và “Nỗi khổ lớn nhất của chúng ta là ý niệm về đến-đi, lui-tới.”

Được lặp đi lặp lại nhiều lần, Thầy khuyên chúng ta thực tập nhìn sâu để chúng ta hiểu được và tự mình nếm được sự tự do của con đường chính giữa, không bị kẹt vào cả hai ý niệm của vĩnh cửu và hư không. Là một thi sĩ nên khi giải thích về các sự trái ngược trong đời sống, Thầy đã nhẹ nhàng vén bức màn vô minh ảo tưởng dùm chúng ta, cho phép chúng ta (có lẽ lần đầu tiên trong đời) được biết rằng sự kinh hoàng về cái chết chỉ có nguyên nhân là các ý niệm và hiểu biết sai lầm của chính mình mà thôi.

Tri kiến về sống, chết của Thầy vô cùng vi tế và đẹp đẽ. Cũng như những điều vi tế, đẹp đẽ khác, cách thưởng thức hay nhất là thiền quán trong thinh lặng. Lòng nhân hậu và từ bi phát xuất từ suối nguồn thâm tuệ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một loại thuốc chữa lành những vết thương trong trái tim chúng ta.

>>> KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

 
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

 
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng và Việt Nam. Thiên Thai Tông lấy kinh này làm giáo pháp căn bản. Kinh này chứa đựng những quan điểm chủ yếu của Đại thừa Phật giáo, đó là giáo pháp về sự chuyển hoá của Phật tính và khả năng giải thoát. Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.

Kinh này được Phật giảng trên đỉnh Linh Thứu cho vô số người nghe gồm có nhiều loài khác nhau. Trong kinh này, Phật chỉ rõ, tuy có nhiều cách để giác ngộ, nhưng chúng chỉ là phương tiện nhất thời và thực tế chúng chỉ là một. Các phương tiện khác nhau như Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa hay Bồ Tát thừa thật ra chỉ khác nhau vì phải cần phù hợp căn cơ của hành giả. Phật chỉ tuỳ cơ duyên, sử dụng các Phương tiện (sa. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thật chất chỉ có Phật thừa (sa. buddhayāna) – nó dẫn đến Giác ngộ, bao trùm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Quan điểm này được làm sáng tỏ bằng ẩn dụ, trong đó một người cha muốn cứu những đứa con ra khỏi một cái nhà đang cháy. Vì những đứa trẻ không chịu nghe lời chạy ra khỏi nhà, người cha đành phải hứa với mỗi đứa cho một món quà tuỳ ý thích của chúng, đứa thì được con nai, con dê, xe trâu… để chúng chịu ra ngoài.

Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Tại Phẩm Như Lai Thọ Lượng có nói rõ đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ mạng vô lượng, thành đạo từ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp về trước, đức phật có nhập Niết Bàn cũng chỉ là phương tiện để giáo hóa chúng sinh, nhưng thực ra đức Phật Thích Ca vẫn ở lai nơi đời thường còn chẳng mất. Trong kinh này, Phật không còn được xem là vị Phật lịch sử nữa mà là dạng xuất hiện của Pháp thân (sa. dharmakāya, xem Tam thân), là thể tính đích thật của muôn loài. Mỗi chúng sinh đều xuất phát từ dạng chuyển hoá này của Phật tính và vì vậy đều có thể trở về với chân tính của mình, trở thành một vị Phật.

Tại Phẩm ‘Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự’ Thứ Hai Mươi Ba ghi:

Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh, kinh này có thể làm cho tất cả chúng sanh xa rời các khổ não, kinh này có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh, đầy mãn chỗ mong cầu của chúng, như ao nước trong mát có thể đầy đủ cho những người khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồng đặng y phục, như người buôn đặng chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp ghe, như người bệnh gặp thầy thuốc, như tối đặng đèn, như nghèo đặng của báu, như dân gặp vua, như khách buôn đặng biển, như đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa này có thể làm cho chúng sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể mở sự trăn trói của tất cả sanh tử.

Kinh này còn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Tín tâm (sa. śraddhā) trên bước đường giải thoát. Sau khi Phật giảng tới đó thì các vị Phật và Bồ Tát tuyên bố hỗ trợ kẻ tu hành để tăng phần tín tâm. Một phẩm quan trọng của kinh này với tên Phổ môn (zh. 普門品, phẩm 25) được dành cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong phẩm này, vị Bồ Tát này nói rất rõ sự hộ trì của mình dành cho người tu học kinh Pháp hoa. Phẩm Phổ môn này được Phật tử Trung Quốc và Việt Nam đặc biệt ưa thích và tụng đọc. Sau đây là hai đoạn đầu của phẩm này theo bản dịch của hòa thượng Thích Trí Tịnh:

Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”

Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.

Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ Tát này được như vậy.

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền được chỗ cạn.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỷ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỷ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.

Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏi.

Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì các quỷ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.

Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các Thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc nầy”.

Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát!” vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền được thoát khỏi.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát sức oai thần to lớn như thế.

Lễ Vu Lan đã trở thành một trong những truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Đây là một nét văn hóa vô cùng quan trọng và ý nghĩa. Hãy trân trọng những khoảng khắc bên cạnh cha mẹ của mình, vì thời gian là hữu hạn và nó sẽ trôi qua rất nhanh. Cùng Newshop có một mùa Vu Lan bên cạnh những người thân yêu của mình nhé. Chúc các bạn thật nhiều sức khỏe và niềm vui.