Quê Nhà Yêu Dấu

Quê Nhà Yêu Dấu

Quê Nhà Yêu Dấu là cuốn sách mà từ thiếu nhi đến người già ai cũng có thể đọc và thấy mình trong đó. Những câu chuyện giản dị đến độ ta có thể nghĩ không cần phải viết ra nữa.
85.000đ 72.250đ

Tiết kiệm: 12.750đ (15%)

Mã Giảm Giá:
Giảm 15k
Giảm 10k
Giảm 10k
THÔNG TIN & KHUYẾN MÃI

Thanh toán linh hoạt với:  , ATM nội địa, Internet Banking 

Giao hàng trên Toàn Quốc

Đặt online hoặc gọi ngay 0909.354.135

Chiết khấu cao cho các đại lý và khách đặt sỉ

Sale Bạt Ngàn, Đón Hè Sang Với Nhiều Ưu Đãi Hấp Dẫn Cùng Newshop

Giao hàng bởi Công Ty TNHH Trực Tuyến NEWSHOP

Giao hàng trên toàn Quốc

Nhận hàng rồi mới thanh toán tiền ( COD )

Quê Nhà Yêu Dấu
Quê Nhà Yêu Dấu
72.250đ 85.000đ Tiết kiệm: 12.750đ (15%)
Mua kèm giảm thêm
Mô tả sản phẩm
Quê Nhà Yêu Dấu

Trở về dưới cội tùng xưa. Nằm nghe ngàn thu miên man rớt đầy vạt nắng. Trở về thăm mái nhà xưa, đường rêu mờ gót chân em qua đây một mùa.

Trở về gởi lại ngàn sau. Niềm vinh dự đã đi qua kiếp người rộng lớn…

Nay nữa đã hơn 100 ngày mất của Vũ Đức Sao Biển, cầm trên tay tập bản thảo cuối cùng của ông, bất giác tôi lại nhớ bài Cõi tiêu dao ông viết.Tập sách như đưa ta trở về những ngày nguyên sơ nhất của tâm hồn, khi mà tất cả những nỗi lo cuộc đời và nỗi buồn thế sự chưa xâm lấn. Nơi đó, ta sống hồn nhiên cùng cây cỏ, bạn bè, góc vườn, con chó con mèo như ngày xưa bé.

1. Nhà báo Nguyễn Đức Hiển, Phó Tổng Biên tập Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh là đồng nghiệp nhiều năm, là bạn nhỏ và là hàng xóm của nhạc sĩ, nhà văn Vũ Đức Sao Biển.

Quê nhà yêu dấu là cuốn sách mà từ thiếu nhi đến người già ai cũng có thể đọc và thấy mình trong đó. Những câu chuyện giản dị đến độ ta có thể nghĩ không cần phải viết ra nữa. Nhưng, cũng giản dị đến mức ta tự vấn lòng rằng sao lại không viết nó ra, không chia sẻ sự rung cảm nguyên sơ ấy? Rằng, văn chương đâu phải cái gì quá to tát vĩ đại. Đọc, thích, và cảm thấy như một cơn gió lành cho tâm hồn bình yên, cho muộn phiền được gột rửa bởi những vui buồn giản dị.

Nếu có chút gì khổ đau, day dứt trong đó, cám cảnh thiệt thòi trong đó, thì đó là khi ta đọc Nguyệt  cầm. Nỗi cô đơn, nỗi khát khao của một người con gái lỡ thì như bị thổi cháy lên từ lò than ngún khi nghe tiếng đàn của một người ngụ cư mới dọn về ở, vọng từ bên kia dòng kênh. Nó day dứt đến độ ngày nọ chị bơi xuồng qua và tìm đến để làm quen. Đến rồi, chị lặng lẽ về khi biết vì sao tiếng đàn ấy da diết thế: Anh ta bị mù, nên bao nhiêu nỗi lòng gởi hết vào tiếng nguyệt cầm.

Không  giống  với  những  hồi  ức  hằn  sâu  bởi mất  mát, đói nghèo, thiệt thòi mà ta gặp trong nhiều tác phẩm khác, Quê nhà yêu dấucủa Vũ Đức Sao Biển là làng quê xứ Quảng nghèo mà đẫm tình, mà  tha  thiết, mà “giàu có” những hạnh phúc bởi những ký ức mộc mạc. Một ngọn khói lam chiều bên mái tranh cũng đủ gợi những bữa cơm đoàn tụ mà sau này khi trở thành một trung niên mồ côi, ông không còn tìm lại được; cái lạnh thấu xương mùa gió bấc cũng đem về nỗi nhớ những đêm cả nhà quây quần bên ngọn đèn dầu lạc, dầu mù u với nồi khoai sắn, với mùi củi dương đốn từ nổng cát cháy tí tách bổ sung nhiệt lượng vì cái chăn quá mỏng (Mùa đông).

Đọc sách, ẩn sau những câu chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt là chất chứa một điều lớn hơn: Sức sống văn hóa của làng quê Việt, mà ở Quảng Nam, cái sức sống ấy như mãnh liệt hơn. Ở nơi mà máy bay trên đầu, giặc ruồng dưới đất người ta vẫn họp chợ. Không có gì để bán để mua, vẫn cứ họp chợ bằng bất cứ thứ gì có thể trao đổi được.
 
Mới hay, người ta đến chợ vì nhu cầu gặp gỡ, chứ không hẳn vì nhu cầu mua bán trao đổi. Người ta họp  chợ  làng  để  giữ  cái  mạch  sống,  cái  sinh  khí của làng (Phiên chợ).

Không  lập  ngôn,  cũng  chẳng  có  mỹ  từ,  tác  giả cứ nhẩn nha kể chuyện, còn người nghe thì tùy vào tâm trạng, vốn sống để mà chỉ nghe chơi hoặc quy chiếu rồi nghĩ sao thì nghĩ. Như trong Người và chim, những  ngày  chăm  con  trai  trong  bệnh  viện,  ông quan sát cái tổ chim trên nhánh cây ngoài bậu cửa, trông  chờ  cái  tổ  ấm  của  đôi  chim được đan xây, ngày nó đẻ và ấp trứng… Rồi ngày con trai xuất viện, ông đã buộc vào cái cửa thông gió một sợi thép để yên tâm rằng sẽ không có ai sau đó mở cái ô cửa ấy, như cách giữ bình yên cho chúng đón đôi chim nhỏ ra đời. Hành vi ấy của nhân vật khiến người đọc yên tâm hơn về tương lai của “gia đình chim”. Nó cũng sẽ khiến người đọc quan tâm và nâng niu thiên nhiên hơn từ những trang viết đó.

Tuổi thơ nghèo, đói và vất vả; làng quê nghèo khổ với giặc giã và thiên tai hạn hán, rồi bão lũ, song hơn hết “tuổi thơ tôi rất đỗi thơ mộng và ngọt ngào”. Tập sách như chút lòng  gởi quê nhà, như một sự tri ân cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn nhạc sĩ, nhà văn Vũ Đức Sao Biển. Ấy là sự tri ân cánh đồng cho lúa chín, là ơn nghĩa quê nhà cho mình ký ức đẹp tươi; là ơn bậc sinh thành đã tảo tần nuôi lớn cả bầy con; là ơn thiên nhiên cho con người từ sinh kế, thú vui lẫn những khi lòng tĩnh lặng như nhiều câu chuyện về những chuyến đi câu (Câu cá U Minh Thượng, Câu cá sông quê, Bùa câu cá). Mỗi sắc hoa trong tập sách cũng là một mảnh ghép giúp ta hiểu thêm tâm hồn tác giả (Bóng hoa sim; Bâng khuâng màu hoa cải).

Giờ thì tâm hồn ông Sao Biển đang viễn du về lại với quê nhà, đang hóng gió dòng Trường Giang hay ngược sông Thu Bồn lên Hòn Kẽm Đá Dừng, rong ruổi chiều thu Mỹ Sơn hay về Tiên Phước, hay theo con sáo về miệt Hậu Giang, Bạc Liêu nơi ông sống một thời trai trẻ.

Tôi không nghĩ tập sách sẽ là một tác phẩm để ta kỳ vọng như một dấu ấn văn chương. Nhưng chắc chắn với những ai yêu mến nhà văn, nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển  thì Quê  nhà  yêu  dấu là  một  lời  tâm  tình để  ta  hiểu  hơn  tâm  hồn  tác  giả. Đọc tập sách này sẽ hiểu và yêu hơn văn chương, âm nhạc của ông, hiểu thêm về con người ông. Hơn thế, nó nhắc ta:

Ai cũng có một quê nhà để thương nhớ, ai cũng có ký ức để vỗ về. Vì vậy Quê nhà yêu dấu không còn là chốn riêng của tác giả, nó là chốn bình yên cho cả người đọc sách.

Sài Gòn, Thu, Canh Tý 2020

Trích đoạn Phiên chợ

Họp chợ là họp cho vui chứ thực tế người ta không mua bán gì nhiều mà đôi khi cũng không có tiền để mua bán. Có lẽ, người làng họp chợ như là một nhu cầu chứng minh mình còn sống, làng còn sinh khí.

Năm nào cũng vậy, những ngày cận Tết, trời Tam Kỳ lạnh căm căm. Làng tuy có tên là Kim Đới - đai vàng, nhưng không ai có được một bộ đồ lành lặn tử tế, chứ đừng nói tới chuyện có được một chiếc nhẫn vàng hay thắt đai lưng bằng vàng làm trang sức. Người dân trong làng chỉ mặc một thứ quần áo màu đen, cái màu truyền thống do tiệm nhuộm của ông Đồng nhuộm cho một loại vải tự túc, dệt bằng tay  của  thời  kháng  chiến. Nắng mưa dãi dầu làm cho màu đen trên vai và lưng của mỗi người đều bạc thếch. Vậy là ai cũng như  ai,  ai  cũng  giống  ai,  từ thằng bé như tôi, đến chị phụ nữ, đến người già. Ai cũng mặc một màu đen bạc thếch ra chợ.

Chợ họp vào buổi chạng vạng, dưới rừng dương liễu, nơi ngó ngang qua cái trường  Xóm, gần một mả đá vôi. Máy bay năm đầu của Pháp bay ngang qua vùng này, thấy trường Xóm lợp mái ngói đỏ, đã bắn đại liên ào ạt xuống đó. Trận không kích không làm cho ai chết hay bị thương bởi trường Xóm không có thầy dạy, cũng không có học trò học.

Nó chỉ đứng ở khoảng trống đó cho có lệ bởi những người xây lên nó đã bỏ đi hết. Những người thầy, những  người  có  chữ  nghĩa  đã  rời  làng  đi  kháng chiến đâu đó trên Tam Kỳ. Làng Kim Đới chỉ còn ông bà già, trẻ con và phụ nữ ở lại.

Tuy vậy, họ vẫn họp chợ Tết. Trời lạnh căm. Những người ra chợ đầu quấn khăn, co người lại, hai tay thủ vào trong túi áo. Tội nghiệp nhất vẫn là đôi chân. Ai cũng đi chân trần trên nền cát ẩm ướt. Có người nhà ở gần chợ đem theo một cái ghế vuông, ngồi co chân lên ghế đã là hạnh phúc lắm rồi. Ai nói cũng ra khói. Có thể trông làn hơi khói thoát ra khỏi miệng người, ta hiểu được người ấy nói nhiều hay ít, dài hay ngắn.

Trích đoạn Mùa đông

Lá dương rụng xuống, tạo thành một thảm lá trên đồi. Tôi và người anh ruột đem đôi gióng thúng, đôi bồ cào đi cào lá dương khô làm chất đốt.

Mưa cứ rả rích, mãi cả đêm vẫn không tạnh. Ở trong nhà, tôi hình như không nghe được tiếng mưa nhưng nó vẫn có đấy. Những giọt mưa nhỏ như sợi tơ từ mái tranh rơi xuống tấm liếp cửa, rồi từ  liếp cửa rơi xuống hiên nhà, tạo thành những lỗ trũng nhỏ chứa nước. Giọt nước rơi xuống, cứ thánh thót, đều đều và buồn bã.

Trời thật lạnh. Cái lạnh bén như một lưỡi dao sắc, tưởng có thể cắt đứt thịt da. Tấm mền xi-ta nội hóa dệt ở đâu đó trên Tam Kỳ, thường được gọi là xi-ta bà Tân, không đủ  để  chống  lạnh. Đã mặc ở trong một cái áo dài tay, ở ngoài thêm một áo ngắn, đắp tấm mền xi-ta mà tôi vẫn cứ lạnh. Cái lạnh như đâu từ trong xương tủy, trong cột sống lạnh ra. Nó làm cho những ngón tay, ngón chân cóng lại. Nó làm cho hai vành tai và cái lỗ mũi tê buốt.

Tôi nghe người lớn nói ở đâu đó trời quá lạnh khiến người ta rụng luôn lỗ mũi. Tôi chỉ sợ rụng mất mũi bởi nếu như vậy thì khuôn mặt sẽ xấu lắm.

Những đêm lạnh, tôi thường hay bị sổ mũi nhưng sờ lên mặt mình tôi lại rất vui bởi mũi mình vẫn còn đó.

Nhà đóng cửa im ỉm, chỉ chừa một khoảng nhỏ cho không khí vào, đủ để thở. Qua  khoảng trống đó, tôi chỉ có thể nhìn thấy một không gian xam  xám  nhờ  nhờ  vào  ban  ngày.  Sang  đến  ban đêm, cái khoảng trống ấy cũng tối thui. Trong cái lạnh, không khí tưởng đã đặc quánh lại, tràn đầy hơi ẩm ướt.

Mùa đông, có lẽ vạt sim trên nổng cao là lạnh nhất. Phía dưới những cội sim già là các gò mả. Tội nghiệp cho những người đã qua đời. Họ phải nằm dưới mưa, trong cát ướt chờ suốt ba tháng để tới mùa khô tạnh ráo. Không ai đủ can đảm lên nổng để  thắp  cây  hương  cho  họ  trong  suốt  mùa  đông rét mướt này. Thiếu cây hương, thiếu cái mùi khói thơm nhẹ nhàng quyện trong gió, vùng gò mả càng lạnh thêm.

Nước mưa thẩm thấu vào nổng, chảy ra một dòng nước thật trong. Dòng nước ấy chảy vào các bờ  sát,  thành  một  cái  kinh  nhỏ  đổ  thẳng  ra  vạt ruộng. Không biết tự bao giờ, một đoàn cá rô thóc tròn cỡ hạt mít bơi tung tăng trong dòng nước ấy.

Nếu là ở mùa khác, tôi và anh Rứt hàng xóm đã be bờ, làm lờ bắt chúng. Nhưng mùa đông, bước xuống khe nước chịu lạnh không nổi, hai chúng tôi đành thua.

Ruộng đã gặt xong hết, chỉ còn trơ những gốc rạ.  Một  vùng  bình  nguyên  nhỏ  hiếm  hoi  chỉ  còn những vạt dương liễu co ro trong mưa. Cây dương liễu thật cam chịu. Nó lớn lên trong cái làng cát này bao nhiêu đời, cong lưng chịu giông bão mùa đông, khát cổ chịu nóng nực mùa hè mà vẫn sống. Nó gần như là biểu tượng của một đời lao động cần cù mà ngoan cường. Mùa xuân tới mùa thu, gió mát về, nó reo vi vu. Lá dương rụng xuống, tạo thành một thảm  lá  trên  đồi.  Tôi  và  người  anh  ruột  đem  đôi gióng thúng, đôi bồ cào đi cào lá dương khô làm chất  đốt.  Đời  cây  dương  liễu  không  cần  ai  chăm bón. Nó cứ lặng lẽ hy sinh và hy sinh...

 

Các bạn có thể tham khảo :

quy-trinh-dong-hang-newhsop
Hỏi, đáp về sản phẩm
0 bình luận
Khách hàng nhận xét